DIỄN VĂN CỦA TỔNG THỐNG CLINTON
TẠI CUỘC CHIÊU ĐÃI TRỌNG THỂ TỐI 17/11
Kính thưa ************* Trần Ðức Lương,
Kính thưa các quý vị đại biểu của Chính phủ Việt Nam,
Kính thưa các quý ông, quý bà,
Xin cảm ơn sự đón tiếp mà các Ngài đã dành cho tôi, gia đình tôi và phái đoàn của chúng tôi.
Chúng tôi vinh dự được cùng các Ngài viết nên một chương mới trong quan hệ giữa hai nước Hoa Kỳ và Việt Nam, và chúng tôi biết ơn vì chương sử mới này đã có một khởi đầu tốt đẹp. Quả thực, lịch sử mà chúng ta để lại sau mình rất đau buồn và nặng nề. Chúng ta không được quên nó. Nhưng chúng ta cũng không được để nó chi phối chúng ta. Quá khứ chỉ là cái đến trước tương lai, quá khứ không phải là cái quyết định tương lai.
Hôm nay nước Mỹ và nước Việt Nam đang làm nên một trang sử mới. Thế hệ sau sẽ nhìn lại thời điểm hiện tại và thấy những cựu chiến binh Mỹ quay trở lại Việt Nam tìm kiếm câu trả lời về quá khứ, và những người Việt Nam chấp nhận họ để cùng xây dựng một tương lai chung; thấy những sinh viên trẻ của Việt Nam khát khao hấp thụ tất cả những gì thế giới dành cho họ, và cùng học với họ có các thanh niên đến từ nước Mỹ; thấy các doanh nhân, các nhà khoa học và các nhà bảo tồn cùng các nghệ sĩ đúc nên mối liên kết giữa Việt Nam và thế giới.
Nói ngắn gọn, người ta sẽ nhìn lại và đi đến một kết luận mà Nguyễn Trãi, nhà chính trị thiên tài của Việt Nam đã từng nói 500 năm trước, đại ý: Sau rất nhiều năm chiến tranh, chỉ còn cuộc sống là tồn tại.
Ngày nay, nhân dân hai nước chúng ta cùng đối mặt với một thế giới có nhiều thay đổi, với những khát vọng cơ bản giống nhau, và cả những băn khoăn giống nhau: Làm sao để có thể nắm lấy những cơ hội của nền kinh tế toàn cầu mà vẫn tránh được những xáo động của nó? Làm thế nào để trong khi mở cửa đón những ý tưởng mới, chúng ta vẫn bảo vệ được truyền thống của chúng ta, nền văn hoá của chúng ta, lối sống của chúng ta?
Nhưng nếu như toàn cầu hóa mang thế giới đến với Việt Nam, thì đồng thời nó cũng mang Việt Nam đến với thế giới. Các bộ phim về cuộc sống ở Việt Nam, từ phim “Mùi đu đủ xanh” đến phim “Ba mùa”, đang giành được giải thưởng trên toàn thế giới. Các bức tranh của họa sĩ Việt Nam Ðỗ Quang Em có giá trị cao tại các cuộc triển lãm nghệ thuật quốc tế. Các bài thơ 200 năm tuổi của nữ sĩ Hồ Xuân Hương đang được xuất bản ở Mỹ ?” bằng tiếng Anh, tiếng Việt, và cả chữ “Nôm” nguyên bản, là lần đầu tiên mà một bản thảo cổ của Việt Nam được đưa lên in ấn. Các nhà thiết kế thời trang như Armani và Calvin Klein sáng tạo những bộ sưu tập mới dựa trên trang phục truyền thống của Việt Nam, chiếc áo dài. Tôi cũng xin nói thêm, người Mỹ đang thưởng thức lá sả, tỏi và thậm chí cả mướp đắng ?” tất cả được trồng tại một trang trại của người Việt Nam ở Virginia, chỉ cách Nhà Trắng 20 phút lái xe.
Toàn cầu hóa cũng có nghĩa là trên mạng internet, người Mỹ có thể đọc những tin tức tài chính mới nhất của Việt Nam, hoặc biết đến những khó khăn thách thức trong việc bảo tồn khu phố cổ Hà Nội, hay là ủng hộ các tổ chức đang xúc tiến bảo tồn các loài vật mới, đang được tìm thấy tại cao nguyên miền trung. Nó cũng có nghĩa là chúng tôi có thể cài đặt phông chữ tiếng Việt . Quả thật, chăng bao lâu nữa, những công nghệ dịch thuật tinh vi sẽ làm cho internet trở thành một lực lượng đa ngôn ngữ, chứ không phải là đồng hóa ngôn ngữ.
Khi chúng ta mở rộng các cánh cửa, chúng ta không chỉ tiếp nhận những tư tưởng mới. Chúng ta còn giới thiệu được với bên ngoài tài năng và tính sáng tạo cùng tiềm năng của dân tộc. Chỉ sau một ngày ở thăm đất nước của các bạn, tôi tin tưởng chắc chắn rằng sẽ không có gì có thể ngăn cản người dân Việt Nam giành lấy cơ hội nhận biết tiềm năng tràn đầy của mình. Nhân dân Hoa Kỳ vui mừng vì đã đến lúc chúng ta có thể trở thành đối tác.
Như Truyện Kiều đã nói: “Sen tàn cúc lại nở hoa, sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”. Nay những ký ức băng giá về quá khứ đã bắt đầu tan. Những phác thảo của một tương lai ấm áp chung đã bắt đầu hình thành. Cùng nhau, chúng ta hãy tận hưởng mùa xuân mới này.
Tôi muốn các bạn cùng tôi nâng cốc chức mừng ngài *************, phu nhân của ngài và nhân dân của đất nước vĩ đại này cũng như tình hữu nghị trong tương lai giữa hai nước chúng ta.
————————-
REMARKS BY THE PRESIDENT
IN TOAST REMARKS AT STATE DINNER
Presidential Palace- Hanoi, Socialist Republic of Vietnam
7:38 P.M. (L)
THE PRESIDENT: Mr. President, Madam Luong, distinguished representatives of the Vietnamese government, ladies and gentlemen: Let me thank you for your welcome to me and to my family and to our entire American delegation.
We are honored to join you in writing a new chapter in the relationship between the United States and Vietnam, and grateful that this chapter has a happy beginning. Yes, the history we leave behind is painful and hard. We must not forget it, but we must not be controlled by it. The past is only what precedes the future, not what determines it.
America and Vietnam are making a new history today. A generation from now, people will look back on this time and see the American veterans who came back to Vietnam searching for answers about the past, and the Vietnamese who enlisted them in building a common future. They will see the young Vietnamese students, eager to absorb all the world has to offer, and the young Americans who have come here to learn with them. They will see the entrepreneurs and the scientists and the conservationists and the artists, forging links between Vietnam and the world.
In short, people will look back and reach the same conclusion as the great Vietnamese statesman, Nguyen Trai, when he said 500 years ago, “After so many years of war, only life remains.”
Today, our people face a changing world and a changing life together,with the same basic aspirations and even some of the same worries. How can we seize the opportunities of a global economy while avoiding its turmoil? How can we open our doors to new ideas while protecting our tra***ions, our cultures, our way of life?
Globalization is bringing the world to Vietnam and also bringing Vietnam to the world. Films about life in Vietnam, from “The Scent of the Green Papaya” to “The Three Seasons” are winning awards all over the globe.The paintings of the Vietnamese artist, Do Quang Em, command fortunes at international art shows. The 200-year-old poems of Ho Xuan Huong are published in America — in English, in Vietnamese, and even in the original Nam, the first time ancient Vietnamese script has come off a printing press. Fashion designers like Armani and Calvin Klein base new collections on the tra***ional Vietnamese dress, the Ao Dai. Americans are tasting lemon grass, garlic chives and even bitter melon, all of which, by the way,grow on a Vietnamese farm in our state of Virginia, just a 20-minute drive from the White House.
Mr. President, globalization also means that on the Internet, Americans can read the latest Vietnamese financial news, or learn about the challenges in restoring Hanoi’s Old Quarter, or support the organizations working to preserve new species being found in the central highlands. It means we can download fonts in the Vietnamese language. Indeed, before long, sophisticated translation technologies will make the Internet a force for linguistic diversity, not uniformity.
When we open our doors, we not only let new ideas in, we let the talent and creativity and potential of our people out. That, too, will come to Vietnam. After just one day in your country, I am certain there will be no stopping the people of Vietnam as they gain the chance to realize their full potential. The people of the United States are happy that the time has come when we can be partners.
As the tale of Kieu foretold, “Just as the lotus wilts, the mums bloom forth; time softens grief, and the winter turns to spring.” Now the frozen images of the past have begun to thaw. The outlines of a warmer shared future have begun to take shape. Let us make the most of this new spring together.
I ask you to join me in a toast to the President of Vietnam, to Madam Luong, to the people of this great country and to our future friendship together.
———————————————————————————————————————————
Bài phát biểu của tổng thống hoa kỳ, Bill Clinton
tại Đại học Quốc gia Việt nam Hà nội
Cảm ơn các bạn rất nhiều và chào các bạn. Tôi không thấy có một nơi nào thích hợp hơn là Đại học Quốc gia Việt Nam để tôi bắt đầu chuyến thăm ở thời điểm tràn đầy hy vọng của lịch sử cho cả hai nước chúng ta. Tôi đã học được một câu tiếng Việt; và tôi sẽ cố gắng đọc câu ấy. Nếu tôi đọc sai, các bạn cứ cười thỏa thích. Xin chào các bạn.
Biết bao hứa hẹn của quốc gia trẻ trung này được tích luỹ nơi đây. Tôi được biết rằng các bạn đã có những chương trình trao đổi với gần 100 các trường đại học, từ Canada đến Pháp và Hàn Quốc. Và các bạn cũng đang tiếp đón hơn 12 sinh viên từ trường đối tác – Đại học California Hoa Kỳ – hiện đang học tại đây.
Tôi chào mừng những nỗ lực to lớn của các bạn trong việc hoà nhập với thế giới. Dĩ nhiên, tôi cũng biết rằng cũng như mọi sinh viên khắp nơi, các bạn còn bận tâm nhiều chuyện khác ngoài việc đèn sách. Ví dụ: vào tháng 9, các bạn vừa phải học và vừa theo dõi thành tích của cô Trần Hiếu Ngân tại Sydney. Và tuần này, các bạn lại vừa học vừa cổ vũ cho các anh Lê Huỳnh Đức và Nguyễn Hồng Sơn tại cuộc tranh tài bóng đá tại Bangkok.
Tôi lấy làm hân hạnh là Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ đầu tiên đến Hà Nội và thăm trường đại học này. Và tôi làm như thế với một ý thức rằng lịch sử giữa hai quốc gia chúng ta thật gắn bó, vừa là nguồn đau thương cho các thế hệ đã qua vừa là nguồn hứa hẹn cho các thế hệ sắp tới.
Cách đây 2 thế kỷ, trong những ngày đầu của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, chúng tôi đã vượt biển để tìm các đối tác thương mại và một trong các nước mà chúng tôi tiếp cận đầu tiên là Việt Nam. Thật vậy, một trong các nhà lập quốc của Hoa Kỳ, Ngài Thomas Jefferson, đã tìm cách mua hạt giống gạo Việt Nam để trồng trên nông trại của mình tại Virginia cách đây đã 200 năm. Vào lúc thế chiến thứ hai xảy ra, Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ đã là một xứ tiêu thụ đáng kể các hàng xuất khẩu từ Việt Nam. Vào năm 1945, trong ngày lập quốc của các bạn, những ngôn từ của Thomas Jefferson đã được chọn để vang vọng trong bản Tuyên ngôn Độc lập của các bạn: “Mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hoá đã cho chúng ta những quyền chắc chắn không thể xâm phạm được; đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc.”
Dĩ nhiên, tất cả những điểm gặp gỡ nhau trong lịch sử 200 năm nay đã bị lu mờ trong vài thập niên vừa qua bởi cuộc xung đột mà chúng tôi gọi là Chiến tranh Việt Nam và các bạn gọi là Kháng chiến chống Mỹ. Hẳn là các bạn đã biết rằng ở Washington D.C., tại Quảng trường Quốc gia có một bức tường đá đen đã được khắc tên của những người Hoa Kỳ đã bỏ mình tại Việt Nam. Tại tượng đài trang nghiêm này, một số cựu chiến binh Hoa Kỳ cũng nhắc đến “mặt bên kia của bức tường,” sự hy sinh chồng chất của nhân dân Việt Nam hai miền trong cuộc xung đột đó – hơn 3 triệu thường dân và chiến sỹ dũng cảm.
Nỗi đau khổ chung này đã tạo cho hai quốc gia chúng ta một mối quan hệ không giống bất cứ quan hệ nào khác. Cũng do cuộc xung đột này, Hoa Kỳ hiện nay là quê hương của 1 triệu người Mỹ có tổ tiên là Việt Nam. Cũng do cuộc xung đột này, 3 triệu cựu chiến binh Hoa Kỳ đã phục vụ tại Việt Nam, cũng như nhiều nhà báo, nhân viên đại sứ quán, nhân viên cứu trợ và nhiều người khác nữa, đã mãi mãi gắn liền với quốc gia của các bạn.
Cách đây gần 20 năm, một nhóm quân nhân Hoa Kỳ đã đi bước đầu tiên để tái lập những mối liên hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Họ trở lại Việt Nam lần đầu tiên kể từ cuộc chiến, và khi họ đi bộ trên những đường phố Hà Nội, nhiều người Việt Nam biết họ đến thăm và đã tiến lại hỏi họ: các bạn có phải là binh sĩ Hoa Kỳ không? Chưa ngờ trước chuyện gì sẽ xảy ra đối với họ, những cựu chiến binh của chúng tôi trả lời: Đúng vậy. Và họ cảm thấy thật nhẹ nhõm xiết bao khi những người Việt Nam nói với họ một cách giản dị là: chào mừng các bạn đến Việt Nam.
Tiếp đó, nhiều cựu chiến binh cũng đã đến đây gồm cả những cựu chiến binh và anh hùng Hoa Kỳ tên tuổi hiện đang phục vụ tại Quốc hội Hoa Kỳ: Nghị sỹ John McCain, Nghị sỹ Bob Kerrey, Nghị sỹ Chuck Robb, và Nghị sỹ John Kerry của bang Massachusett, là người có mặt tại đây với tôi, cùng một số hạ nghị sĩ của chúng tôi, trong số đó có vài cựu chiến binh của cuộc xung đột ở Việt Nam.
Khi họ đến đây, họ đã nhất quyết tôn vinh những người đã tham chiến mà không khơi lại cuộc chiến; nhớ lại lịch sử của chúng ta nhưng không kéo dài nó mãi mãi; để cho lớp trẻ như các bạn tại hai quốc gia chúng ta có một cơ hội sống vì tương lai, chứ không phải sống với quá khứ. Như Đại sứ Pete Peterson đã nói một cách thật hùng hồn, “Chúng ta không thể thay đổi quá khứ. Cái mà chúng ta có thể thay đổi được đó là tương lai.”
Mối quan hệ mới giữa chúng ta trở nên mạnh hơn, khi các cựu chiến binh Hoa Kỳ thành lập những tổ chức phi lợi nhuận để hoạt động giúp đỡ nhân dân Việt Nam, chẳng hạn như cung cấp những dụng cụ cho những người bị thương tích chiến tranh để giúp họ sống một cuộc sống bình thường. Sự tận tình của Việt Nam giúp trao trả hài cốt những quân nhân của chúng tôi trở về với gia đình họ là sự thúc đẩy lớn nhất để cải thiện mối quan hệ. Có rất nhiều người Hoa Kỳ tại đây đã làm việc nhiều năm trong lĩnh vực đó, gồm cả Bộ trưởng Bộ Cựu Chiến Binh của chúng tôi, Ngài Hershel Gober.
Lòng mong muốn được đoàn tụ với thân nhân thất lạc là điều dễ hiểu đối với tất cả chúng ta. Nhiều người Mỹ rất cảm động khi biết rằng chương trình truyền hình mà người Việt Nam xem nhiều nhất vào mỗi chủ nhật là chương trình nhờ khán giả giúp họ tìm kiếm những thân nhân mất tích trong chiến tranh cách đây rất lâu.
Và chúng tôi biết ơn những người dân làng Việt Nam đã giúp tìm kiếm những người mất tích của chúng tôi và vì thế đem lại sự ổn định tinh thần cho những gia đình người Mỹ khi họ biết rằng chuyện gì thật sự đã xảy ra đối với thân nhân của họ.
Chưa bao giờ có hai quốc gia nào đã làm được những việc mà chúng ta cùng nhau đang làm để tìm kiếm những người mất tích trong cuộc xung đột ở Việt Nam. Rất nhiều đội Hoa Kỳ và Việt Nam đã làm việc cùng nhau, đôi khi tại những nơi chốn khó khăn và nguy hiểm. Chính phủ Việt Nam đã cung cấp cho chúng tôi những tài liệu và thông tin của chính phủ để hỗ trợ cuộc tìm kiếm của chúng tôi. Và để đáp lại, chúng tôi đã cung cấp được cho Việt Nam gần 400.000 trang tài liệu có thể trợ giúp cuộc tìm kiếm của các bạn. Trong chuyến thăm này, tôi mang thêm 350.000 trang tài liệu mà tôi hy vọng sẽ giúp các gia đình Việt Nam tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy đến với những thân nhân thất lạc của họ.
Hôm nay, tôi đã trân trọng trao cho ************* của các bạn, Ngài Trần Đức Lương những tài liệu này. Tôi cũng nói với chủ tịch rằng Hoa Kỳ sẽ cung cấp thêm 1 triệu trang tài liệu nữa trước cuối năm nay. Chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp trợ giúp và kêu gọi sự giúp đỡ của các bạn, khi cả đôi bên giữ lời cam kết là làm bất cứ việc gì chúng ta có thể làm được cho đến khi nào đạt được một thống kê đầy đủ nhất về thân nhân của chúng ta.
Sự hợp tác của các bạn trong sứ mạng đó qua 8 năm nay đã được đáp lại bằng việc Hoa Kỳ hỗ trợ Việt Nam những khoản vay quốc tế, tái lập thương mại giữa hai quốc gia chúng ta, thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức và đã ký Hiệp định Thương mại trọng yếu vào năm nay.
Sau cùng, chúng tôi xem Việt Nam như một quốc gia, chứ không phải như một cuộc chiến tranh như các bạn đã yêu cầu trong bao nhiêu năm qua. Một quốc gia với tỷ lệ dân biết chữ cao nhất ở Đông Nam á; một quốc gia mà giới trẻ vừa đoạt được ba huy chương vàng tại cuộc thi Toán học Olympiad Quốc tế Seoul; một quốc gia của những doanh gia tài năng, tận tuỵ đang xuất hiện sau những năm xung đột và bất ổn, và hướng tới một tương lai xán lạn.
Hôm nay, Hoa Kỳ và Việt Nam bắt đầu một giai đoạn mới trong mối quan hệ đôi bên, vào lúc khi mọi người trên toàn thế giới buôn bán với nhau nhiều hơn, đi lại nhiều hơn, biết nhau nhiều hơn và nói chuyện với nhau nhiều hơn bao giờ hết. Vào lúc khi mọi người tự hào về nền độc lập quốc gia của mình, thì chúng ta đều biết rằng chúng ta đang trở nên ngày càng lệ thuộc lẫn nhau hơn. Sự di chuyển của con người, tiền tài và ý tưởng xuyên biên giới, thành thật mà nói, đã tạo ra những sự ngờ vực giữa những công dân tốt thuộc mọi quốc gia. Họ lo lắng về xu hướng toàn cầu hoá do những hậu quả bất ổn và không lường trước được.
Tuy vậy, xu hướng toàn cầu hoá không phải là một thứ mà chúng ta có thể ngăn cản hoặc loại trừ được. Sự kiện kinh tế này tương đương với lực của thiên nhiên như gió hoặc nước. Chúng ta có thể dồn gió cho căng buồm. Chúng ta có thể dùng nước để tạo ra năng lượng. Chúng ta có thể cố gắng chống lại bão và lũ lụt để bảo vệ nhân dân và tài sản. Nhưng chúng ta chẳng thể nào phủ nhận sự hiện hữu của gió và nước, hoặc tìm cách loại chúng. Xu hướng toàn cầu hoá cũng thế. Chúng ta có thể nỗ lực để tối đa hoá cái lợi của nó và giảm thiểu những rủi ro, nhưng chúng ta không thể làm ngơ trước xu hướng này và nó cũng sẽ không tự biến mất.
Trong thập niên qua, khi khối lượng thương mại trên thế giới đã tăng gấp đôi, số lượng đầu tư từ những quốc gia giàu vào những quốc gia đang phát triển đã tăng gấp sáu lần, từ 25 tỷ đô la vào năm 1990 lên đến hơn 150 tỷ đô-la vào năm 1998. Những quốc gia đã mở cửa nền kinh tế của họ trong hệ thống thương mại quốc tế đã tăng trưởng nhanh ít nhất gấp đôi so với những quốc gia có nền kinh tế khép kín. Công ăn việc làm của các bạn trong tương lai rất có thể tuỳ thuộc vào thương mại và đầu tư của nước ngoài. Nói đến đây tôi chợt nghĩ, chỉ còn 8 tuần nữa tôi sẽ mãn nhiệm, tôi nghĩ là việc làm sau này của tôi rất có thể tuỳ thuộc vào thương mại và đầu tư nước ngoài.
Trong 15 năm qua, Việt Nam đã thực hiện chính sách Đổi Mới, gia nhập APEC và ASEAN, bình thường hoá quan hệ với Cộng đồng Châu Âu và Hoa Kỳ, và giải thể hợp tác xã nông nghiệp, để nông dân tự do trồng trọt những gì họ muốn và thu nhập trên chính thành quả lao động của họ. Những kết quả này là minh chứng hùng hồn nhất về sức mạnh của các thị trường của các bạn và các khả năng của nhân dân các bạn. Các bạn không chỉ khống chế được tình trạng suy dinh dưỡng mà còn trở thành nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai trên thế giới và đã đạt được sự phát triển kinh tế toàn diện mạnh mẽ hơn.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tốc độ phát triển kinh tế có chậm lại và đầu tư nước ngoài vào Việt Nam có giảm đi. Điều này cho thấy rằng bất kỳ một nỗ lực nào nhằm tránh xa khỏi những rủi ro của một nền kinh tế toàn cầu thì đồng thời cũng khiến mình không được thừa hưởng những phần thưởng cũng từ đó mà có.
Vào mùa hè năm nay, Ngài Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đã nói, và tôi xin được trích dẫn nguyên văn: “Chúng tôi chưa đạt được tầm phát triển xứng với các khả năng của đất nước chúng tôi. Và chỉ có một cách duy nhất là mở cửa hơn nữa nền kinh tế.” Nên trong mùa hè năm nay, điều mà tôi tin tưởng sẽ được xem là một bước trọng yếu trên con đường các bạn tiến tới sự thịnh vượng trong tương lai, Việt Nam và Hoa Kỳ đã ký một hiệp định thương mại song phương có tính lịch sử, xây dựng một nền tảng để Việt Nam cuối cùng gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới.
Theo Hiệp định này, Việt Nam sẽ cho phép các công dân của mình, và dần dần sẽ cho phép công dân của các nước khác, các quyền được nhập khẩu, xuất khẩu và phân phối hàng hoá; cho người dân Việt Nam các quyền mở rộng để quyết định vận mệnh kinh tế của chính họ. Việt Nam đã đồng ý sẽ đưa ra các quyết định quan trọng của mình theo nền pháp trị và hệ thống thương mại quốc tế, tăng cường nguồn thông tin tới mọi người dân, và đẩy mạnh sự thăng tiến của nền kinh tế tự do và khu vực kinh tế tư nhân.
Tất nhiên, điều này sẽ tốt cho các đối tác nước ngoài của Việt Nam cũng như Hoa Kỳ. Nhưng nó sẽ còn tốt hơn nữa cho các doanh nhân Việt Nam, là những người đang nỗ lực xây dựng việc kinh doanh của chính họ. Theo hiệp định này, theo tin Ngân hàng Thế giới, Việt Nam có thể thu được thêm 1,5 tỷ đô-la Mỹ mỗi năm và hàng năm chỉ riêng từ hàng xuất khẩu.
Cả hai quốc gia chúng ta đều ra đời từ một bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Bản Hiệp định Thương mại này là một dạng của Bản Tuyên Ngôn Lệ Thuộc Lẫn Nhau, một lời tuyên bố rõ ràng và không mập mờ rằng sự phồn vinh trong thế kỷ 21 tuỳ thuộc vào sự giao lưu kinh tế của một quốc gia với thế giới.
Sự mở rộng mới này là một cơ hội to lớn cho các bạn. Nhưng nó chưa đảm bảo thành công. Vậy thì phải làm những gì khác? Việt Nam là một quốc gia trẻ trung, với 60% dân số dưới tuổi 30, và mỗi năm có 1,4 triệu người tham gia lực lượng lao động. Những vị lãnh đạo của các bạn hiểu rằng chính phủ và các công ty quốc doanh không thể mỗi năm tạo ra 1,4 triệu việc làm mới. Họ biết rằng những ngành công nghiệp thúc đẩy nền kinh tế toàn cầu hôm nay, như máy tính, viễn thông, công nghệ sinh học, là những ngành dựa trên kiến thức. Đó là lý do tại sao những nền kinh tế trên thế giới tăng trưởng nhanh hơn khi giới trẻ được học cao hơn, khi phụ nữ có những cơ hội được đi học như nam giới, khi những người trẻ như các bạn có mọi cơ hội khảo sát những ý tưởng mới rồi chuyển những ý tưởng đó thành những cơ hội kinh doanh cho chính mình.
Quả thực như vậy, tất cả các bạn có mặt tại hội trường này ngày hôm nay phải là động lực tạo nên sự phồn vinh của Việt Nam trong tương lai. Như ************* Trần Đức Lương đã tuyên bố, nội lực của một quốc gia là trí tuệ và năng lực của nhân dân.
Hoa Kỳ hết sức khâm phục trí tuệ và năng lực của các bạn. Một trong những chương trình trao đổi giáo dục lớn nhất của chính phủ chúng tôi là với Việt Nam. Và chúng tôi muốn tăng thêm nữa. Thượng nghị sỹ Kerry có mặt tại đây, và tôi đã nhắc đến ông trước đó, đang dẫn đầu cho một nỗ lực tại Quốc hội Hoa Kỳ, ông cùng với Thượng nghị sỹ John McCain và những cựu chiến binh khác của cuộc xung đột tại đây, đang hoạt động nhằm thiết lập một tổ chức mới gọi là Quỹ Giáo dục Việt Nam. Một khi được thông qua, quỹ này sẽ hỗ trợ 100 học bổng hàng năm, tại đây hoặc tại Hoa Kỳ, cho những người nghiên cứu hoặc giảng dạy khoa học, toán, công nghệ và y khoa.
Bây giờ chúng tôi đã sẵn sàng tài trợ thêm cho những chương trình trao đổi để dự án này có thể được thực hiện ngay. Tôi hy vọng một số người trong các bạn sẽ có cơ hội tham gia. Và tôi cảm ơn Thượng nghị sỹ Kerry vì ý tưởng tốt đẹp này. Cảm ơn Ngài vì những gì Ngài đã thực hiện. (Vỗ tay)
Tôi muốn nói, cái cũng quan trọng như kiến thức chính là cái lợi của kiến thức, mà cái lợi này thì bị hạn chế bởi những giới hạn thái quá trong việc sử dụng kiến thức. Người Mỹ chúng tôi tin tưởng ở sự tự do được tìm tòi, du lịch, suy nghĩ, phát biểu, định hướng những quyết định tác động đến cuộc sống của chúng tôi làm phong phú cuộc sống của mọi người và mọi quốc gia mà trong nhiều khía cạnh vượt ra xa ngoài phạm vi kinh tế.
Cho đến nay, thành tích của Hoa Kỳ trong lĩnh vực này vẫn chưa được hoàn hảo. Rút cuộc, chúng tôi phải mất một thế kỷ mới xoá bỏ được nô lệ. Việc giành quyền bầu cử cho phụ nữ thì phải mất một thời gian dài hơn thế nữa. Và chúng tôi vẫn đang tìm tòi để thực hiện một liên bang hoàn hảo hơn theo ước mơ của những nhà lập quốc của chúng tôi và những ngôn từ trong Bản Tuyên Ngôn Độc Lập và Hiến pháp của chúng tôi. Nhưng trong suốt 224 năm qua, chúng tôi đã học được một vài bài học. Thí dụ, chúng tôi đã thấy rằng những nền kinh tế hoạt động tốt hơn khi báo chí được tự do tố cáo tham nhũng, và những toà án độc lập có thể đảm bảo cho các hợp đồng được tôn trọng, sự cạnh tranh được tiến triển mạnh mẽ và công bằng, và các quan chức nhà nước tôn trọng nền pháp trị.
Theo kinh nghiệm của chúng tôi, việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền bất đồng chính kiến không đe doạ sự ổn định của một xã hội. Ngược lại, nó tạo được niềm tin của người dân vào sự công bằng của hiến pháp của chúng ta, và khiến chúng ta phải thực hiện hiến pháp mặc dù chúng ta không đồng ý một quyết định nào đó. Tất cả những điều này sẽ làm cho đất nước của chúng ta mạnh hơn trong các thời điểm tốt hoặc xấu. Theo kinh nghiệm chúng tôi, giới trẻ sẽ có nhiều niềm tin hơn vào tương lai nếu họ có tiếng nói trong việc định hướng tương lai, trong việc lựa chọn các nhà lãnh đạo chính phủ của họ và có một chính phủ có trách nhiệm đối với những người dân mà chính phủ phục vụ.
Bây giờ, tôi xin nhấn mạnh rằng, chúng tôi không tìm cách và cũng không thể áp đặt những ý tưởng này. Việt Nam là một đất nước lâu đời và bền vững. Các bạn đã chứng tỏ với thế giới rằng các bạn sẽ tự quyết định cho chính mình. Chỉ các bạn mới có thể quyết định với những việc chẳng hạn như có nên chăng tiếp tục chia xẻ những tài năng và ý tưởng của Việt Nam với thế giới; có nên chăng tiếp tục mở cửa Việt Nam để làm giầu đất nước mình với những kinh nghiệm của các nước khác. Chỉ có các bạn mới quyết định xem có nên chăng tiếp tục mở cửa thị trường, mở cửa xã hội của mình và củng cố nền pháp trị. Chỉ có các bạn mới quyết định liên kết như thế nào giữa tự do cá nhân và nhân quyền trên nền tảng giầu mạnh của bản sắc quốc gia Việt Nam.
Tương lai của các bạn đang nằm trong đôi bàn tay của mình, đôi bàn tay của nhân dân Việt Nam. Nhưng tương lai của các bạn cũng quan trọng đối với chúng tôi. Vì khi Việt Nam thành công, việc ấy sẽ mang lại lợi ích cho khu vực này cùng các đối tác kinh doanh và những người bạn của các bạn trên toàn thế giới.
Chúng tôi mong muốn được tăng cường sự hợp tác với các bạn trên mọi phương diện. Chúng tôi muốn tiếp tục việc rà soát mìn và những vũ khí chưa nổ. Chúng tôi muốn tăng cường những nỗ lực chung của chúng ta để bảo vệ môi trường bằng cách huỷ bỏ xăng pha chì tại Việt Nam, duy trì nguồn cung cấp nước sạch, cứu nguy những dải san hô và rừng nhiệt đới. Chúng tôi muốn tăng cường nỗ lực trong việc ngăn ngừa và cứu trợ thiên tai, gồm cả những nỗ lực trợ giúp những người bị nguy khốn vì lũ lụt tại vùng đồng bằng sông Cửu Long. Hôm qua, chúng tôi đã trao cho chính phủ các bạn những bức ảnh vệ tinh từ Hệ thống Thông tin Thiên tai Toàn cầu của chúng tôi – những bức ảnh này cho thấy những chi tiết mới nhất về mức độ lũ lụt tại vùng đồng bằng để trợ giúp Việt Nam trong việc tái thiết.
Chúng tôi muốn tăng cường sự hợp tác trong lĩnh vực khoa học, sự hợp tác được chú trọng trong cuộc họp của chúng ta tại Singapore vào tháng này để cùng nhau nghiên cứu những tác động về sức khoẻ và môi sinh của chất đi-ô-xin đối với người Việt Nam và người Mỹ đã có mặt tại Việt Nam; và sự hợp tác mà chúng ta đang mở rộng hơn trên cơ sở Hiệp định Khoa học và Công nghệ mà hai quốc gia chúng ta vừa ký hôm nay.
Chúng tôi muốn là đồng minh của các bạn trong việc phòng chống những căn bệnh gây tử vong chẳng hạn như AIDS, lao và sốt rét. Tôi vui mừng tuyên bố rằng chúng tôi sẽ tăng gấp đôi sự hỗ trợ của chúng tôi cho những nỗ lực của Việt Nam để ngăn chặn nguy cơ của nạn dịch AIDS bằng công tác giáo dục, phòng ngừa, săn sóc và chữa trị. Chúng tôi muốn làm việc với các bạn để đưa Việt Nam thành nơi an toàn hơn bằng cách hỗ trợ các bạn để giảm thiểu những thương tích trên đường phố, ở nhà và tại nơi làm việc. Chúng tôi muốn làm việc với các bạn để tận dụng bản Hiệp định Thương mại này, bằng cách cung cấp sự trợ giúp kỹ thuật để đảm bảo sự thực thi bản Hiệp định thật trôi chảy và đầy đủ, tìm kiếm những phương thức khuyến khích hơn nữa sự đầu tư của Hoa Kỳ nhiều hơn vào quốc gia các bạn.
Tóm lại, chúng tôi mong muốn xây dựng quan hệ đối tác với Việt Nam. Chúng tôi tin rằng việc này sẽ tốt cho cả hai quốc gia. Chúng tôi tin tưởng rằng nhân dân Việt Nam có tài năng để thành công trong thời đại toàn cầu mới này cũng như họ đã thành công trong quá khứ.
Chúng tôi biết vậy, vì chúng tôi đã thấy những tiến bộ các bạn đã đạt được trong thập niên vừa qua. Chúng tôi đã thấy tài năng và sự tháo vát của những người Việt Nam đến cư ngụ tại Hoa Kỳ. Những người Mỹ gốc Việt đã trở thành những quan chức dân cử, chánh án, những nhà lãnh đạo trong lĩnh vực khoa học và trong ngành công nghệ cao. Năm ngoái, một người Mỹ gốc Việt đã có một phát minh toán học làm cho việc điều khiển hội họp từ xa bằng truyền hình với chất lượng cao trở thành dễ dàng hơn. Mọi người ở Hoa Kỳ đều biết đến trường hợp Trần Như Hoàng tốt nghiệp thủ khoa trong khoá học của anh ta tại Trường Võ bị Không quân Hoa Kỳ.
Những người Hoa Kỳ gốc Việt thành đạt không chỉ vì những khả năng độc đáo và tư chất tốt của họ, mà còn vì họ đã có cơ hội để tận dụng khả năng và giá trị của họ. Khi những cơ hội của các bạn tăng lên trong cuộc sống, trong học hỏi, trong việc thể hiện óc sáng tạo, thì không có gì có thể ngăn cản được sự tiến bộ của người Việt Nam. Tôi tin chắc rằng các bạn sẽ thấy nhân dân Hoa Kỳ luôn sát cánh với các bạn. Bởi vì trong thế giới phụ thuộc lẫn nhau này, thành công của các bạn cũng thật sự là thành công của chúng tôi.
Cách đây gần 200 năm, vào khởi điểm của mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam, hai quốc gia chúng ta đã cố gắng nhiều để đàm phán một Hiệp định Thương mại, tương tự như Hiệp định Thương mại mà chúng ta đã ký hôm nay. Nhưng cách đây 200 năm, những cuộc đàm phán này đều thất bại, và không một hiệp định nào được ký. Hãy nghe lời phát biểu của một sử gia nói về chuyện gì đã xảy ra cách đây 200 năm, và thử nghĩ xem trong hai thế kỷ nay, câu nói này đáng ra phải được nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần rồi. Ông ta nói rằng: “Những nỗ lực này đã thất bại vì hai nền văn hoá xa lạ đã cùng lên tiếng mà không chịu lắng nghe nhau, và tầm quan trọng của bên này đối với bên kia không đủ sức thuyết phục để vượt qua những trở ngại này.”
Vì thiện chí, hãy chấm dứt những ngày tháng khi chúng ta nói át lẫn nhau. Hãy công nhận vai trò quan trọng của mỗi bên. Chúng ta hãy tiếp tục giúp nhau hàn gắn những vết thương chiến tranh, không phải bằng cách quên đi sự dũng cảm cũng như những thảm kịch của các bên, mà bằng tinh thần hoà giải và sự can đảm để xây dựng một tương lai xán lạn hơn cho con em chúng ta.
Mong rằng con em chúng ta sẽ học được ở chúng ta bài học cho thấy rằng: là những con người thiện chí và thông qua những cuộc đối thoại tôn trọng lẫn nhau, người ta có thể phát hiện và tái phát hiện tính nhân văn chung cho cả hai phía và một quá khứ thật đau thương có thể được bù đắp trong một tương lai hoà bình và thịnh vượng.
Cảm ơn các bạn đã chào đón tôi, gia đình tôi và những thành viên trong đoàn Hoa Kỳ đến Việt Nam. Cảm ơn lòng tin vào tương lai của các bạn. Chúc các bạn sức khoẻ và thành công.
REMARKS BY THE PRESIDENT
TO VIETNAM NATIONAL UNIVERSITY
Vietnam National University
Hanoi, Socialist Republic of Vietnam
3:50 P.M. (L)
THE PRESIDENT: Thank you very much, and good afternoon. I can think of no more fitting place to begin my visit at this hopeful moment in our common history than here at Hanoi National University. I was given a Vietnamese phrase; I am going to try to say it. If I mess it up, feel freeto laugh at me. Xin chao cac ban.* (Applause.)
So much of the promise of this youthful nation is embodied with you. I learned that you have exchanges here with students from nearly 100 universities, from Canada to France to Korea — and that you are now hosting more than a dozen full-time students from your partner school in the United States, the University of California.
I salute your vigorous efforts to engage the world. Of course, like students everywhere, I know you have things to think about other than your studies. For example, in September, you had to study for your classes and watch the Olympic accomplishments of Tran Hieu Ngan in Sydney. And this week you have to study and cheer Le Huynh Duc and Nguyen Hong Son in Bangkok at the football matches. (Applause.)
I am honored to be the first American President to see Hanoi, and to visit this university. But I do so conscious that the histories of our two nations are deeply intertwined in ways that are both a source of pain for generations that came before, and a source of promise for generations yet to come.
* Hello, everybody.
Two centuries ago, during the early days of the United States, we reached across the seas for partners in trade and one of the first nations we encountered was Vietnam. In fact, one of our founding fathers, Thomas Jefferson, tried to obtain rice seed from Vietnam to grow on his farm in Virginia 200 years ago. By the time World War II arrived, the United States had become a significant consumer of export from Vietnam. In 1945, at the moment of your country’s birth, the words of Thomas Jefferson were chosen to be echoed in your own Declaration of Independence: “All men are created equal. The Creator has given us certain inviolable rights — theright to life, the right to be free, the right to achieve happiness.”
Of course, all of this common history, 200 years of it, has been obscured in the last few decades by the conflict we call the Vietnam War and you call the American War. You may know that in Washington, D.C., on our National Mall, there is a stark black granite wall engraved with the name of every single American who died in Vietnam. At this solemn memorial, some American veterans also refer to the “other side of the wall,” the staggering sacrifice of the Vietnamese people on both sides of
that conflict — more than three million brave soldiers and civilians.
This shared suffering has given our countries a relationship unlike any other. Because of the conflict, America is now home to one million Americans of Vietnamese ancestry. Because of the conflict, three million Americans veterans served in Vietnam, as did many journalists, embassy personnel, aid workers and others who are forever connected to your country.
Almost 20 years ago now, a group of American servicemen took the first step to reestablish contacts between the United States and Vietnam. They traveled back to Vietnam for the first time since the war, and as they walked through the streets of Hanoi, they were approached by Vietnamese citizens who had heard of their visit: Are you the American soldiers, they asked? Not sure what to expect, our veterans answered, yes, we are. And to their immense relief, their hosts simply said, welcome to Vietnam.
More veterans followed, including distinguished American veterans and heroes who serve now in the United States Congress: Senator John McCain, Senator Bob Kerrey, Senator Chuck Robb, and Senator John Kerry from Massachusetts, who is here with me today, along with a number of representatives from our Congress, some of whom are veterans of the Vietnam
conflict.
When they came here, they were determined to honor those who fought without refighting the battles; to remember our history, but not to perpetuate it; to give young people like you in both our countries the chance to live in your tomorrows, not in our yesterdays. As Ambassador Pete Peterson has said so eloquently, “We cannot change the past. What we can change is the future.”
Our new relationship gained strength as American veterans launched nonprofit organizations to work on behalf of the Vietnamese people, such as providing devices to people with war injuries to help them lead more normal lives. Vietnam’s willingness to help us return the remains of our fallen servicemen to their families has been the biggest boost to improve ties. And there are many Americans here who have worked in that endeavor for many years now, including our Secretary of Veterans Affairs, Hershel Gober.
The desire to be reunited with a lost family member is something we all understand. It touches the hearts of Americans to know that every Sunday in Vietnam one of your most-watched television shows features families seeking viewers’ help in finding loved ones they lost in the war so long ago now. And we are grateful for the Vietnamese villagers who have helped us to find our missing and, therefore, to give their families the peace of mind that comes with knowing what actually happened to their loved ones.
No two nations have ever before done the things we are doing together to find the missing from the Vietnam conflict. Teams of Americans and Vietnamese work together, sometimes in tight and dangerous places. The Vietnamese government has offered us access to files and government
information to assist our search. And, in turn, we have been able to give Vietnam almost 400,000 pages of documents that could assist in your search.On this trip, I have brought with me another 350,000 pages of documents that I hope will help Vietnamese families find out what happened to their missing loved ones.
Today, I was honored to present these to your President, Tran DucLuong. And I told him before the year is over, America will provide another million pages of documents. We will continue to offer our help and to ask for your help as we both honor our commitment to do whatever we can for as long as it takes to achieve the fullest possible accounting of our loved ones.
Your cooperation in that mission over these last eight years has made it possible for America *****pport international lending to Vietnam, to resume trade between our countries, to establish formal diplomatic relations and, this year, to sign a pivotal trade agreement.
Finally, America is coming to see Vietnam as your people have asked for years — as a country, not a war. A country with the highest literacy rate in Southeast Asia; a country whose young people just won three Gold Medals at the International Math Olympiad in Seoul; a country of gifted,hardworking entrepreneurs emerging from years of conflict and uncertainty
to shape a bright future.
Today, the United States and Vietnam open a new chapter in our relationship, at a time when people all across the world trade more, travel more, know more about and talk more with each other than ever before. Even as people take pride in their national independence, we know we are becoming more and more interdependent. The movement of people, money and
ideas across borders, frankly, breeds suspicion among many good people in every country. They are worried about globalization because of its unsettling and unpredictable consequences.
Yet, globalization is not something we can hold off or turn off. It is the economic equivalent of a force of nature — like wind or water. We can harness wind to fill a sail. We can use water to generate energy. We can work hard to protect people and property from storms and floods. But there is no point in denying the existence of wind or water, or trying to make them go away. The same is true for globalization. We can work to
maximize its benefits and minimize its risks, but we cannot ignore it –and it is not going away.
In the last decade, as the volume of world trade has doubled,
investment flows from wealthy nations to developing ones have increased by six times, from $25 billion in 1990 to more than $150 billion in 1998. Nations that have opened their economies to the international trading system have grown at least twice as fast as nations with closed economies. Your next job may well depend on foreign trade and investment. Come to think of it, since I have to leave office in about eight weeks, my next job may depend on foreign trade and investment.
Over the last 15 years, Vietnam launched its policy of Doi Moi, joined APEC and ASEAN, normalized relations with the European Union and the United States, and disbanded collective farming, freeing farmers to grow what they want and earn the fruits of their own labor. The results were impressive
proof of the power of your markets and the abilities of your people. You not only conquered malnutrition, you became the world’s second largest exporter of rice and achieved stronger overall economic growth.
Of course, in recent years the rate of growth has slowed and foreign investment has declined here, showing that any attempt to remain isolated from the risks of a global economy also guarantees isolation from its rewards, as well.
General Secretary Le Kha Phieu said this summer, and I quote, “We have yet to achieve the level of development commensurate with the possibilities of our country. And there is only one way to further open up the economy.” So this summer, in what I believe will be seen as a pivotal step toward
your future prosperity, Vietnam joined the United States in signing an historic bilateral trade agreement, building a foundation for Vietnam’s entry eventually into the World Trade Organization.
Under the agreement, Vietnam will grant to its citizens, and over time to citizens of other countries, rights to import, export and distribute goods, giving the Vietnamese people expanding rights to determine their own economic destiny. Vietnam has agreed it will subject important decisions to the rule of law and the international trading system, increase the flow of information to its people, and accelerate the rise of a free economy and the private sector.
Of course, this will be good for Vietnam’s foreign partners, like the United States. But it will be even better for Vietnam’s own entrepreneurs, who are working hard to build businesses of their own. Under this agreement, Vietnam could be earning, according to the World Bank, another $1.5 billion each and every year from exports alone.
Both our nations were born with a Declaration of Independence. This trade agreement is a form of declaration of interdependence, a clear,unequivocal statement that prosperity in the 21st century depends upon a nation’s economic engagement in the rest of the world.
This new openness is a great opportunity for you. But it does not guarantee success. What else should be done? Vietnam is such a young country, with 60 percent of your population under the age of 30, and 1.4 million new people entering your work force every year. Your leaders realize that government and state-owned businesses cannot generate 1.4 million new jobs every year. They know that the industries driving the global economy today — computers, telecommunications, biotechnology — these are all based on knowledge. That is why economies all over the world grow faster when young people stay in school longer, when women have the same educational opportunities that men have, when young people like you have every opportunity to explore new ideas and then to turn those ideas into your own business opportunities.
You can be — indeed, those of you in this hall today must be — the engine of Vietnam’s future prosperity. As President Tran Duc Luong has said, the internal strength of the country is the intellect and capacity of its people.
The United States has great respect for your intellect and capacity. One of our government’s largest educational exchange programs is with Vietnam. And we want to do more. Senator Kerry is right there, and I mentioned him earlier — is leading an effort in our United States Congress, along with Senator John McCain and other veterans of the conflict
here, to establish a new Vietnam Education Foundation. Once enacted, the foundation would support 100 fellowships every year, either here or in the United States, for people to study or teach science, math, technology and medicine.
We’re ready to put more funding in our exchange programs now so this effort can get underway immediately. I hope some of you in this room will have a chance to take part. And I want to thank Senator Kerry for this great idea. Thank you, sir, for what you have done. (Applause.)
Let me say, as important as knowledge is, the benefits of knowledge are necessarily limited by undue restrictions on its use. We Americans believe the freedom to explore, to travel, to think, to speak, to shape decisions that affect our lives enrich the lives of individuals and nations in ways that go far beyond economics.
Now, America’s record is not perfect in this area. After all, it took us almost a century to banish slavery. It took us even longer to give women the right to vote. And we are still seeking to live up to the more perfect union of our founders’ dreams and the words of our Declaration of Independence and Constitution. But along the way over these 226 years —
224 years — we’ve learned some lessons. For example, we have seen that economies work better where newspapers are free to expose corruption, and independent courts can ensure that contracts are honored, that competition is robust and fair, that public officials honor the rule of law.
In our experience, guaranteeing the right to religious worship and the right to political dissent does not threaten the stability of a society. Instead, it builds people’s confidence in the fairness of our institutions, and enables us to take it when a decision goes in a way we don’t agree with. All this makes our country stronger in good times and bad. In our experience, young people are much more likely to have confidence in their future if they have a say in shaping it, in choosing their governmental leaders and having a government that is accountable to those it serves.
Now, let me say emphatically, we do not seek to impose these ideals, nor could we. Vietnam is an ancient and enduring country. You have proved to the world that you will make your own decisions. Only you can decide, for example, if you will continue to share Vietnam’s talents and ideas with the world; if you will continue to open Vietnam so that you can enrich it with the insights of others. Only you can decide if you will continue to
open your markets, open your society and strengthen the rule of law. Only you can decide how to weave individual liberties and human rights into the rich and strong fabric of Vietnamese national identity.
Your future should be in your hands, the hands of the Vietnam people. But your future is important to the rest of us, as well. For as Vietnam succeeds, it will benefit this region and your trading partners and your friends throughout the world.
We are eager to increase our cooperation with you across the board. We want to continue our work to clear land mines and unexploded ordnance. We want to strengthen our common efforts to protect the environment by phasing out leaded asoline in Vietnam, maintaining a clean water supply, saving coral reefs and tropical forests. We want to bolster our efforts on disaster relief and prevention, including our efforts to help those suffering from the floods in the Mekong Delta. Yesterday, we presented to your government satellite imagery from our Global Disaster Information Network — images that show in great detail the latest flood levels on the Delta that can help Vietnam to rebuild.
We want to accelerate our cooperation in science, cooperation focused this month on our meeting in Singapore to study together the health and ecological effects of dioxin on the people of Vietnam and the Americans who were in Vietnam; and cooperation that we are advancing further with the Science and Technology Agreement our two countries signed just today.
We want to be your ally in the fight against killer diseases like
AIDS, tuberculosis and malaria. I am glad to announce that we will nearly double our support of Vietnam’s efforts to contain the AIDS crisis through education, prevention, care and treatment. We want to work with you to make Vietnam a safer place by giving you help to reduce preventable injuries — on the streets, at home and in the workplace. We want to work with you to make the most of this trade agreement, by providing technical
assistance to assure its full and smooth implementation, in finding ways to encourage greater United States investment in your country.
We are, in short, eager to build our partnership with Vietnam. We believe it’s good for both our nations. We believe the Vietnamese people have the talent *****cceed in this new global age as they have in the past.
We know it because we’ve seen the progress you have made in this last decade. We have seen the talent and ingenuity of the Vietnamese who have come to settle in America. Vietnamese-Americans have become elected officials, judges, leaders in science and in our high-tech industry. Last year, a Vietnamese-American achieved a mathematical breakthrough that will make it easier to conduct high-quality video-conferencing. And all America took notice when Hoang Nhu Tran graduated number one in his class at the United States Air Force Academy.
Vietnamese-Americans have flourished not just because of their unique abilities and their good values, but also because they have had the opportunity to make the most of their abilities and their values. As your opportunities grow to live, to learn, to express your creativity, there will be no stopping the people of Vietnam. And you will find, I am certain, that the American people will be by your side. For in this interdependent world, we truly do have a stake in your success.
Almost 200 years ago, at the beginning of the relations between the United States and Vietnam, our two nations made many attempts to negotiate a treaty of commerce, sort of like the trade agreement that we signed today. But 200 years ago, they all failed, and no treaty was concluded. Listen to what one historian said about what happened 200 years ago, and
think how many times it could have been said in the two centuries since.He said, “These efforts failed because two distant cultures were talking past each other, and the importance of each to the other was insufficient to overcome these barriers.”
Let the days when we talk past each other be gone for good. Let us acknowledge our importance to one another. Let us continue to help each other heal the wounds of war, not by forgetting the bravery shown and the tragedy suffered by all sides, but by embracing the spirit of reconciliation and the courage to build better tomorrows for our children.
May our children learn from us that good people, through respectful dialogue, can discover and rediscover their common humanity, and that a painful, painful past can be redeemed in a peaceful and prosperous future.
Thank you for welcoming me and my family and our American delegation to Vietnam. Thank you for your faith in the future. Chuc cac ban suc khoeva thanh cong.*
Thank you very much.
END 4:17 P.M. (L)
* May you have health and success.
————————————————————————————————————
Đây là bài phát biểu của TBT Lê Khả Phiêu:
Chiều 18-11, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã tiếp Tổng thống Hoa Kỳ W.J.Clinton thăm chính thức Việt Nam. Sau phần phát biểu của Tổng thống Clintơn, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã có bài phát biểu đáp từ. Tạp chí Quê Hương xin trích đăng dưới đây:
“Tôi hoan nghênh Ngài và phu nhân cùng phái đoàn Hoa Kỳ sang thăm Việt Nam. Tôi đã được thông báo về Hội đàm giữa Ngài và ************* Trần Đức Lương, cuộc gặp giữa Ngài và Thủ tướng Phan Văn Khải cũng như cuộc nói chuyện của Ngài tại Đại học Quốc gia Hà Nội. Đúng là mỗi nước, mỗi dân tộc có lịch sử, truyền thống, bản sắc văn hóa riêng. Hoa Kỳ cũng vậy. Việt Nam cũng vậy. Dân tộc chúng tôi có mấy ngàn năm văn hiến.
Về quá khứ, tôi đồng ý với Ngài là chúng ta không quên quá khứ, không làm lại được quá khứ. Vấn đề quan trọng là hiểu cho đúng thực chất cái quá khứ ấy. Cụ thể là hiểu cho đúng thực chất cuộc kháng chiến chống xâm lược mà chúng tôi đã phải tiến hành. Căn nguyên cuộc kháng chiến chống xâm lược của chúng tôi là từ đâu? Sâu xa là từ khi chủ nghĩa đế quốc đi đánh chiếm thuộc địa. Nước Việt Nam có đem quân đi đánh Hoa Kỳ đâu mà Hoa Kỳ lại đem quân sang đánh Việt Nam? Kết quả của cuộc kháng chiến chống xâm lược của chúng tôi là chúng tôi đã giành độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Cho nên đối với chúng tôi, quá khứ không phải trang sử đen tối, đau buồn và bất hạnh. Nói về trách nhiệm đối với quá khứ, đối với cuộc chiến tranh vừa qua, thì không thể đánh đồng; vì nó đã để lại những hậu quả nặng nề cho nhân dân và đất nước Việt Nam. Về bài học của quá khứ, điều quan trọng là những người có trách nhiệm đừng để lặp lại những việc như đã làm trong quá khứ. Đối với chúng tôi, quá
khứ là gốc rễ, là nền tảng, là sức mạnh của hiện tại và tương lai.
Cuộc chiến tranh mà các Ngài gọi là chiến tranh Việt Nam, chúng tôi gọi là cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Sau Hiệp định hòa bình năm 1954, đất nước chúng tôi tạm thời chia làm hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến tạm thời. Theo Hiệp định, sau hai năm sẽ có tổng tuyển cử nhưng chế độ Ngô Đình Diệm không thực hiện, dùng bộ máy của ông ta để giết hại nhân dân Việt Nam. Lại có người nói, có nước ở Tây bán cầu muốn lấy vĩ tuyến 17 của Việt Nam làm biên giới. Một nước ở Tây bán cầu mà lấy vĩ tuyến 17 của chúng tôi làm biên giới là vô lý quá. Không thể thống nhất bằng phương pháp hòa bình nên chúng tôi phải dùng chiến tranh giải phóng để thống nhất đất nước. Đó là căn nguyên gây ra cuộc chiến tranh vừa qua. Từ trước đến nay, nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Nhân dân Mỹ, nhân dân thế giới, toàn thể loài người đã ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của chúng tôi. Từ quá khứ đó, chúng ta phải rút ra kinh nghiệm và phải có trách nhiệm đúng đắn với quá khứ. Ngài McNamara trong một cuộc Hội thảo
cũng nói rằng cần phải rút kinh nghiệm.
Về công cuộc đổi mới của chúng tôi, đổi mới bắt nguồn từ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội và vì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong sự nghiệp này, chúng tôi cảm ơn cộng đồng quốc tế đã hợp tác giúp đỡ chúng tôi. Mục tiêu đổi mới mà chúng tôi phải đi đến là xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế của chúng tôi có nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo. Chúng tôi có kinh tế tư nhân, nhưng chúng tôi không tư nhân hóa nền kinh tế. Chúng tôi tổ chức lại hợp tác xã chứ không phải giải tán hợp tác xã. Trong nền kinh tế mà chúng tôi đang xây dựng thì kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác có vai trò rất quan trọng. Hơn 30 năm chiến tranh, 19 năm bị cấm vận, gặp vô vàn khó khăn, thách thức, nhưng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vẫn tồn tại, vẫn phát triển và nhất định sẽ phát triển. Tôi được mời đi thăm Pháp, Italy và Cộng đồng châu Âu, tôi cũng nói như vậy. Bà Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ trong một lần gặp tôi có hỏi: Chủ nghĩ
a xã hội có tồn tại được không? Tôi nói: Không những tồn tại mà chủ nghĩa xã hội sẽ tiếp tục phát triển thắng lợi.
Về đối ngoại, Việt Nam chúng tôi muốn là bạn với tất cả các dân tộc, các quốc gia trên thế giới, cùng phấn đấu vì hòa bình, độc lập, hữu nghị và phát triển, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi. Chúng tôi theo đuổi một đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ, chúng tôi không đóng cửa. Việc ký Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ chính là cũng nằm trong đường lối đó. Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với gần 170 nước, quan hệ thương mại với hơn 150 nước, Đảng chúng tôi có quan hệ với hơn 180 đảng cộng sản, cánh tả, đảng cầm quyền. Trong quan hệ quốc tế ngày nay, mọi quốc gia, dân tộc đều cần hợp tác để cùng phát triển. Chúng tôi tôn trọng sự lựa chọn, cách sống và chế độ chính trị của các dân tộc. Chúng tôi cũng đòi hỏi các nước tôn trọng chế độ chính trị, sự lựa chọn của dân tộc chúng tôi. Việc các nước có chế độ chính trị khác nhau cũng không ngăn cản sự hợp tác để cùng phát triển, nếu biết tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau
, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi.
Điều chắc chắn là trong thế kỷ 21, khoa học công nghệ sẽ phát triển như vũ bão. Nhưng lại có một nghịch lý là hố ngăn cách giữa nước giàu và nước nghèo lại ngày càng lớn. Ngày nay, tổng số tài sản của hơn 300 tỷ phú trên thế giới bằng thu nhập của hơn 2 tỷ người ở các nước nghèo.
Tương lai của dân tộc chúng tôi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tôi mong quan hệ giữa hai nước chúng ta tiếp tục phát triển, không lặp lại những việc làm như trong quá khứ đã xảy ra. Chúng tôi quý trọng nhân dân Mỹ, cảm ơn nhân dân Mỹ đã ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Thấy hình ảnh cháu Chelsea, tôi chạnh nhớ cháu , Emily con gái của Morison, và mẹ cháu cũng đã từng sang thăm Việt Nam. Đó là biểu tượng đẹp của tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước.
Dù sau này, Ngài bàn giao nhiệm vụ cho tổng thống mới thì tôi vẫn xin mời Ngài và gia đình sang thăm lại Việt Nam.
Chúc Ngài, cụ bà, phu nhân và cháu gái Chelsea dồi dào sức khỏe và hạnh phúc.”